Vi phạm về xác định thời hiệu khởi kiện, thu thập, xác định tư cách người tham gia tố tụng, chứng cứ và đánh giá chứng cứ trong vụ án hành chính

 Qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục phúc thẩm giữa:

Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Bản, Trú quán: số 3 ngách 77/103, phố NT, phường DM, quận NTL, thành phố HN.

Người bị kiện: Sở Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân (UBND) quận NTL, thành phổ HN.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. UBND thành phố HN, Văn phòng đăng ký đất đai thành phố HN, các phòng Công chứng số 4 và Toàn Tâm thuộc sở Tư pháp thành phố HN.

2. Các ông Bạch Đăng Cường, bà Nguyễn Thị Họp, ông Ngô Văn Hoàng, ông Nguyễn Đức Hương, bà Phạm Minh Thảo, ông Đồ Nguyễn Minh, ông Trần Ngọc Hân và bà Nguyễn Thị Bình

3. Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (SACOMBANK).

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại HN nhận thấy có một số vi phạm cần thông báo để rút kinh nghiệm như sau:

Vi phạm trong thu thập chứng cứ và đánh giá chứng cư

1. Tóm tắt nội dung, quá trình giải quyết vụ án:

Nguồn gốc căn nhà cấp 4 lợp ngói trên thửa đất số 100, tờ bản đồ số 9, diện tích 344m2 địa chỉ tại phường DM, quận NTL, thành phố HN là do ông Bạch Đăng Cường nhận thừa kế từ bố mẹ để lại năm 1999. Năm 1983 ông Cường kết hôn với bà Nguyễn Thị Hợp đến năm 1986 bà Hợp ly thân bỏ về bên ngoại ở nhưng đến 16/9/2009 mới ly hôn (Quyết định thuận tình ly hôn số 161/2009/QĐST-HNGĐ của Tòa án nhân dân (TAND) huyện TL). Năm 1993 ông Cường sống như vợ chồng với bà Nguyễn Thị Bản tại thửa đất trên, năm 1998 ông bà sinh người con tên là Bạch Đàng Đạt. Ngày 23/11/2009 ông Cường và bà Bản mới đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn đã ly thân từ năm 2013, bà Bản chuyển xuống ở tại khu nhà trọ trên thửa đất trên hiện ông bà đang chờ giải quyết ly hôn.

Năm 2001 ông Cường bà Bản đã xây dựng ngôi nhà 02 tầng diện tích 74m2 trên nền ngôi nhà cấp 4 và ngày 18/11/2005 được UBND huyện TL cấp giấy CNQSD đất số AD 724447 mang tên ông Bạch Đăng Cường trên toàn bộ thửa đất 344 m2.

Ngày 26/12/2014, ông Bạch Đăng Cường bà Nguyễn Thị Hợp chuyển nhượng 41m2 đất ở và 34m2 đất ở làm ngõ đi chung cho ông Nguyền Đức Hương bà Phạm Minh Thảo theo hợp đồng chuyển nhượng số 2459.2014/CNQSDĐ; cùng ngày 26/12/2014 tiếp tục chuyển nhượng 52m2 đất ở và 34m2 đất ở làm ngõ đi chung cho ông Đồ Nguyễn Minh bà Lý Thùy Châm theo hợp đồng chuyển nhượng số 2460.2014/CNQSDĐ tại Văn phòng công chứng Toàn Tâm thành phố HN. Ngày 13/02/2015, UBND quận NTL ban hành Quyết định số 841/QĐ-UBND về việc cấp giấy CNQSH đất số BY 549662 cho ông Nguyễn Đức Hương bà Phạm Minh Thao; cấp giấy CNQSH đất số BY 549663 cho ông Đồ Nguyễn Minh bà Lý Thùy Châm.

Ngày 14/12/2015, ông Bạch Đăng Cường bà Nguyễn Thị Hợp tiếp tục chuyển nhượng 50,4m2 đất cho ông Ngô Văn Hoàng bà Trần Thị Yến theo họp đồng chuyển nhượng số 8463.2015/HĐTC tại Vãn phòng công chứng số 4 thành phổ HN. Ngày 19/6/2016, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố HN cấp Giấy CNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền trên đất số CD 542233 cho ông Ngô Văn Hoàng bà Trần Thị Yến.

Phần diện tích đất còn lại chưa chuyển nhượng 217m2 của ông Bạch Đăng Cường đã được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận NTL xác nhận tại trang 04 của giấy CNQSD đất số AĐ 724447 ngày 13/02/2005 “Cùng sử dụng đất với bà Nguyền Thị Hợp”. Trên cơ sở giấy CNQSD đất này, ngày 19/01/2016 Sở Tài nguyên và môi trường thành phố HN cấp mới giấy CNQSD đất số CD 542232 cho người sử dụng đất ông Bạch Đăng Cường nhưng có ghi “Cùng sử dụng đất với bà Nguyễn Thị Hợp” và giấy GCNQSD đất sổ CD 542235 cấp cho bà Nguyễn Thị Hợp “Cùng sử dụng đất với ông Bạch Đăng Cường”.

Bà Nguyễn Thị Hợp khai: Năm 1983 bà kết hôn cùng ồng Cường ở trên nhà đất của bổ mẹ ông Cường. Bà sống ly thân với ông Cưòng từ năm 1986. Việc chuyển nhượng một phần đất cho anh Hương, chị Thảo và anh Minh, chị Châm bà không biết. Hiện tại bà không ở trên đất này. Năm 2016 giấy CNQSDĐ đứng tên bà sử dụng chung cùng ông Cường bà không biết và không có liên quan. Khi ông Cường và bà Ban bán đất cho anh Hoàng chị Yến có nhờ bà ký vào hợp đồng chuyển nhượng thì bà mới biết, số tiền bán đất bà không được hưởng. Trong quá trình Tòa án giải quyết việc ly hôn tại bản tự khai, biên bản hòa giải cả ông Cường bà Hợp đều xác định tài sản chung không có; Quyết định 161/2009/QĐST-HNGĐ ngày 16/9/2009 của TAND huyện TL công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự ghi rõ: về tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Nguyễn Thị Bản xác định bà Nguyễn Thị Hợp không có bất kỳ quan hệ hôn nhân, huyết thống hay tham gia giao dịch dân sự nào với gia đình bà. Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố HN xác định bà Hợp cùng sử dụng đất với ông Cường chồng bà là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của hai mẹ con bà. Đồng thời bà khẳng định không chuyển nhượng đất cho ông Ngô Văn Hoàng bà Trân Thị Yến. Bà và con trai có tên trong hộ khẩu gia đình ông Cường, cùng sinh sống trên thửa đất từ năm 1993, nhưng không được hỏi ý kiến, không được ký văn bản về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Hoàng, bà Yến. Hồ sơ chuyển nhượng QSDĐ cho ông Hoàng, bà Yến có dấu hiệu sai lệch, giả mạo, trái pháp luật. Sở Tài nguyên và Môi trường HN đã sang tên chuyền nhượng khi không có chữ ký của bà với tư cách là vợ ông Cường là xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của bà. Nay, bà Bản đề nghị Tòa án giải quyết:

- Hủy bỏ giấy CNQSD đất số CD 542232 cấp ngày 19/01/2016 của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố HN thể hiện người sử dụng đất ông Bạch Đăng Cường nhưng có ghi “Cùng sử dụng đất với bà Nguyễn Thị Hợp”.

- Hủy bỏ giấy CNQSD đất số CD 542233 cấp ngày 19/01/2016 của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố HN thể hiện người sử dụng đất ông Ngô Văn Hoàng và bà Trần Thị Yến.

Ngày 20/8/2017, bà Bản có yêu cầu khởi kiện bổ sung và trình bày: Do hoàn cảnh khó khăn, năm 2007 và năm 2013 vợ chồng bà đã hai lần chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đều do vợ chồng đều thống nhất việc chuyển nhượng, nhận tiền để sử dụng vào công việc chung của gia đình. Tất cả những lần chuyển nhượng này đều có sự đồng ý và chữ ký của bà trong hợp đồng chuyển nhượng và giấy biên nhận tiền (viết tay) với tư cách là người vợ duy nhất của ông Cường và là người đồng sở hữu nhà đất. Bà là người trực tiếp nhận tiền. Nhưng nay qua tìm hiểu bà được biết hai thửa đất chuyển nhượng đã được Văn phòng Đăng ký Đất đai HN chi nhánh quận NTL cấp giấy CNQSD đất dựa trên hồ sơ chuyến nhượng của bà Nguyễn Thị Hợp và ông Cường ký là trái quy định pháp luật. Vì vậy, bà đề nghị Tòa án tuyên hủy tiếp hai giấy CNQSD đất gồm:

- Giấy CNQSD đất số BY 549663 số vào sổ CH 00460 do ƯBND quận NTL cấp ngày 13/02/2015 đứng tên ông Đỗ Nguyễn Minh và bà Lý Thùy Châm.

- Giấy CNQSD đất số BY 549662 số vào sổ CH 00459 do UBND quận NTL cấp ngày 13/02/2015 đứng tên ông Nguyễn Đức Hương bà Phạm Minh Thảo.

+ Bản án hành chính sơ thẩm số 338/2019/HC-ST ngày 31/12/2019 của TAND thành phố HN xét xử quyết định: 

Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Bản về yêu cầu huy giấy CNQSD đất số CD 542232 cấp ngày 19/01/2016 của Sở Tài nguyên và Môi truờng thành phố HN thể hiện nguời sử dụng đất ông Bạch Đăng Cường nhưng có ghi “Cùng sử dụng đất với bà Nguyễn Thị Hợp”; Hủy giấy CNQSD đất số CD 542233 cấp ngày 19/01/2016 cua Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố HN thể hiện người sử dụng đất ông Ngô Văn Hoàng bà Trần Thị Yến.

Bác yêu cầu khởi kiện bô sung của bà Nguyễn Thị Ban yêu cầu húy giấy CNQSD đất số BY 549663 của UBND quận NTL ngày 13/02/2015 đúng tên ông Đỗ Nguyễn Minh bà Lý Thùy Châm; giấy CNQSD đất số BY 549662 ngày 13/02/2015 của UBND quận NTL đứng tên ông ông Nguyễn Đức Hương bà Phạm Minh Thảo.

Ngày 10/01/2020 ông Bạch Đăng Cường bà Nguyễn Thị Bản có đơn kháng cáo nội dung toàn bộ bản án sơ thẩm.

+ Tại bản án hành chính phúc thẩm số 144/2021/HCPT ngày 25/6/2021, Tòa án nhân dân cấp cao tại HN xét xử tuyên hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 338/2019/HC- ST ngày 31/12/2019 của TAND thành phố HN đề xét xử sơ thẩm lại.

2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm.

* Về tố tụng:

- Về xác định thời hiệu khởi kiện thụ lý vụ án;

Các giấy CNQSD đất số BY 549663 và số BY 549662 của UBND quận NTL, thành phố HN cấp cùng ngày 13/02/2015 cho ông bà Đồ Nguyền Minh, Lý Thùy Châm; ông bà Nguyền Đức Huơng, Phạm Minh Thảo. Đến ngày 03/02/2017 bà Nguyễn Thị Bản mới gửi đơn khởi kiện yêu câu hủy các giấy CNQSD đất trên đến Tòa án (theo dấu bưu điện) nhưng cấp sơ thẩm chưa điều tra, xác minh làm rõ thời điểm ông Cường bà Bản nhận được hoặc biết được việc UBND ban hành các giấy CNQSD đất nêu trên. Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm bà Bản cũng không khẳng định được việc mình biết được các giấy CNQSD đất này vào thời điểm cụ thể nào, trong hồ sơ vụ án cũng không có bất kỳ tài liệu gì để chứng minh. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã không điều tra, xác minh tại cơ quan cấp giấy CNQSD đất về thời điếm giao nhận cho các đương sự để làm căn cứ tính thời hiệu, nhưng đã chấp nhận thụ lý vụ án để giải quyết là thiếu sót, vi phạm điểm a, khoản 2 Điều 116 và Điều 125 Luật Tố tụng hành chính 2015.

Về thu thập và xác định tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án

- Về thu thập và xác định tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án:

Sau 3 lần chuyển nhượng, diện tích đất còn lại của ông Bạch Đăng Cường là 217m2 đã được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận NTL xác nhận tại trang 04 giấy CNQSD đất số AĐ 724447 ngày 13/02/2015 “Cùng sử dụng đất với bà Nguyền Thị Hợp”. Trong hồ sơ vụ án không có tài liệu nào thể hiện ông Cường đồng ý cho bà Hợp cùng đứng tên trong giấy CNQSD đất trên, cấp sơ thẩm chưa thu thập tài liệu này. Tại phiên tòa phúc thẩm ông Cường khẳng định ông chưa bao giờ có văn bản, giấy tờ gì đồng ý cho bà Hợp cùng đứng tên với ông trong giấy CNQSD đất.

Trên hai Giấy CNQSD đất số CD 542232 ngày 19/01/2016 tên ông Bạch Đăng Cường “Cùng sử dụng đất với bà Nguyễn Thị Hợp” và giấy CNQSD đất số CD 542235 ngày 19/01/2016 tên bà Nguyễn Thị Hợp “Cùng sử dụng đất với ông Bạch Đăng Cường”, phần nhà ở và tài sản gắn liền với đất không ghi gì là không đúng với giấy CNQSD đất cấp riêng cho ông Cường năm 2005, có nhà ở và tài sản gắn liền với đất ghi: nhà bê tông 2 tầng diện tích 74m2 không đúng thực tế thời điểm năm 2016, ông Cường và bà Bản vẫn đang ở ngôi nhà 2 tầng 74m2 trên phần đất còn lại 217m2. Hồ sơ không có tài liệu nào thể hiện cấp sơ thẩm đã xác minh tài sản trên đất là sở hữu của ai? Tại sao giấy CNQSD đất cấp năm 2016 lại không ghi tài sản trên đất?

Văn phòng đăng ký đất đai quận NTL (nay là Văn phòng đăng ký đất đai HN - chi nhánh quận NTL) là cơ quan tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Cường và những người nhận chuyển nhượng đất của ông Cường và cũng là cơ quan trực tiếp ghi biến động đất tại trang 04 giấy CNQSD đất cấp cho ông Cường năm 2005 thể hiện: “...Còn lại 217m2 thuộc quyền sử dụng riêng của ông Cường và bà Hợp”, trên cơ sở đó mà năm 2016 sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố HN cấp 02 Giấy chứng nhận mới cho ông Cường và bà Hợp. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa cơ quan này vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ căn cứ, lý do xác nhận bà Hợp là người có quyền sử dụng đất cùng ông Cường và lý do không ghi tài sản trên đất như giấy CNQSD đất cấp năm 2005 của ông Cường là thiếu sót, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc xác định thiếu tư cách người tham gia tố tụng. Vi phạm Điều 53, Điều 58 Luật TTHC 2015.

* Về nội dung:

- Về thu thập tài liệu, chứng cứ và đánh giá chứng cứ.

Về thu thập tài liệu, chứng cứ và đánh giá chứng cứ.

Thửa đất số 100, tờ bản đồ số 9 tại phường DM, quận NTL, thành phố HN ông Cường được thừa kế của bố mẹ vào năm 1999, là tài sản riêng của ông Cường, không phải là tài sản chung của ông Cường, bà Hợp. Bởi: bà Họp kết hôn với ông Cường năm 1983 có sống trên thửa đất này, nhưng tại thời điểm đó nhà đất là cua bố mẹ ông Cường, thực tế bà Hợp đã sống ly thân với ông Cường từ năm 1986 và không còn ở trên nhà đất này nữa, nhưng năm 1999 ông Cường mới được thừa kế.

Năm 2005 khi UBND huyện TL cấp giấy CNQSDĐ cho ông Cường, tài sản trên đất là ngôi nhà 2 tầng 74m2 do ông Cường và bà Bản xây dựng năm 2001, bà Bản đã sử dụng nhà đất từ năm 1993 đến nay, bà Bản và con trai cũng có tên trong sổ hộ khẩu của hộ ông Cường. Tuy nhiên, khi làm thủ tục cấp giấy CNQSD đất năm 2005 bà Hợp chưa ly hôn bà Bản chưa đăng ký kết hôn với ông Cường, nên bà Bản không kê khai tài sản trên đất đứng tên cùng ông Cường. Như vậy, bà Bản có quyền sở hừu chung với ông Cường đối với tài sản trên đất là ngôi nhà 2 tầng diện tích 74m2 và có công sức đóng góp quản lý tài sản cùng ông Cường từ năm 1999.

Bản án hành chính sơ thẩm nhận định: “.. .ông Cường kết hôn hợp pháp với bà Hợp từ năm 1983, tuy giấy CNQSD đất số AĐ 724447 do UBND huyện TL cấp ngày 18/11/2005, đứng tên ông Cường song tài sản này hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa bà Hợp và ông Cường nên theo quy định pháp luật thì đây là tài sản chung của vợ chồng. Mặc dù, năm 2009 ông Cường và bà Hợp đã làm thủ tục ly hôn nhưng không yêu cầu phân chia tài sản. Do đó, thửa đất trên vẫn là tài sản chung của ông Cường và bà Hợp .. "là không đúng quy định.

Tòa án cấp sơ thẩm chưa yêu cầu cơ quan cấp giấy CNQSD đất giải thích rõ thời điểm cấp giấy CNQSD đất cho ông Cường, bà Hợp năm 2015, trên đất có những tài sản gì? tài sản của ai? nếu là tài sản của ông Cường và bà Bản thì tại sao lại cấp giấy CNQSD đất cho ông Cường bà Hợp.

Tại hồ sơ giải quyết việc ly hôn giữa ông Cường và bà Hợp thể hiện tài sản chung của vợ chồng không có nên không yêu cầu giải quyết. Nhưng đến năm 2015, Văn phòng đăng ký đất đai quận NTL căn cứ vào đâu để xác nhận tại trang 04 giấy CNQSD đất đã cấp cho ông Cường là: “...Diện tích còn lại 217m2 thuộc quyền sử dụng riêng của ông Cường và bà Hợp”, cũng như căn cứ vào đâu mà Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố HN lại cấp giấy CNQSD đất cho ông Cường, bà Hợp là 02 giấy CNQSD đất có 02 số khác nhau trong cùng một thửa đất là cấp không đúng quy định, không đúng trình tự thủ tục, vi phạm quy định một thửa đất có 2 giấy CNQSD đất khác nhau.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không điều tra, làm rõ những nội dung trên mà vẫn xác định việc cấp giấy CNQSD đất cho ông Cường, bà Hợp là đúng quy định của pháp luật, là thu thập không đầy đủ tài liệu, chứng cứ, và có sai lầm trong đánh giá chứng cứ.

- Về chưa xem xét đến quyết định hành chỉnh có liên quan.

Cùng một thửa đất số 100 nhưng lại có 02 giấy CNQSD đất; quá trình giải quyết vụ án bà Bản chỉ yêu cầu hủy giấy CNQSD đất số CD 542232 cấp cho ông Bạch Đăng Cường “Cùng sử dụng đất với bà Nguyễn Thị Hợp”, nhưng không yêu cầu xem xét đến giấy CNQSD đất số CD 542235 cấp cho bà Nguyễn Thị Hợp “Cùng sử dụng đất với ông Bạch Đăng Cường”; Tòa án cấp sơ thẩm cũng không hướng dẫn, thụ lý, xem xét để giải quyết đối với giấy CNQSD đất số CD 542235 là chưa xem xét đến quyết định hành chính có liên quan giải quyết không triệt để vụ án, vi phạm khoản 1 Điều 6 Luật TTHC 2015, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại HN thông báo việc giải quyết vụ án trên để các Viện kiểm sát địa phương cùng rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lưọng công tác kiểm sát xét xử các vụ án hành chính./.

أحدث أقدم

Quảng cáo Desktop

CHỦ ĐỀ HÓT