Giải đáp một số khó khăn vướng mắc liên quan đến quy định của Bộ luật hình sự năm 2015

1. Khi đã có quyết định khởi tố bị can thì có tiếp tục tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?

Trả lời:

Khoản 1 Điều 27 BLHS năm 2015 quy định: “Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự". Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn mà cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền truy cứu (xác định) trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội và theo quy định của BLTTHS, khi có đủ căn cứ xác định thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ ra quyết định khởi tố bị can. Quyết định khởi tố bị can chính là bước xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, căn cứ vào đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ để truy tố, xét xử người phạm tội, làm rõ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Do vậy, sau khi có quyết định khởi tố bị can, quá trình điều tra, truy tố, xét xử sẽ không tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (bao gồm cả trường hợp vụ án bị hủy đi hủy lại nhiều lần để xét xử lại hoặc để điều tra lại hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần..

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, nếu tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án đối với bị can và các hoạt động tố tụng bị tạm dừng (trừ trường hợp tạm đình chỉ do không xác định được bị can đang ở đâu và đã có quyết định truy nã) thì thời gian tiến hành các hoạt động nhằm khắc phục lý do tạm đình chỉ như: bắt buộc chữa bệnh, giám định tư pháp, tương trợ tư pháp... sẽ phải được tính vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và nếu hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự mà không chứng minh được tội phạm thì Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án.

Đối với trường họp sau khi khởi tố bị can, nếu người phạm tội thuộc một trong hai trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 27 BLHS năm 2015: (1) Người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù; (2) Người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã thì thòi hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ được tính lại kể từ ngày người đó thực hiện hành vi phạm tội mới hoặc kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.

2. Việc miễn trách nhiệm hình sự cho người thực hiện tội phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 có phải là căn cứ để ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự hay không?

Trả lời:

Chế định miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015 chỉ xem xét, áp dụng đoi với người đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tức là đã có quyết định khởi tố bị can đối vói họ. Mặt khác, theo quy định tại Điều 157 BLTTHS năm 2015, trong 08 căn cứ không khởi tố vụ án hình sự thì không có căn cứ là miễn trách nhiệm hình sự cho người thực hiện tội phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015. Do vậy, miễn trách nhiệm hình sự cho người thực hiện tội phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 không phải là căn cứ để ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ quy định tại Điều 157 BLTTHS năm 2015.

Sau khi ra quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, nếu xác định người thực hiện tội phạm thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 thì cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét, quyết định và thực hiện các thủ tục để miễn trách nhiệm hình sự đối với họ theo quy định của pháp luật.

3. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” quy định tại điểm 0 khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 có áp dụng đối với trường hợp người xúi giục cũng là người dưới 18 tuổi không?

Trả lời:

Điều 90 BLHS năm 2015 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương XII; theo quy định khác của Phần thứ nhất của BLHS năm 2015 mà không trái với quy định của Chương này”. Phần thứ nhất và Chương XII của BLHS năm 2015 không có quy định loại trừ việc áp dụng tình tiết tăng nặng “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” đối với người dưới 18 tuổi. Do vậy, nếu người dưới 18 tuổi có hành vi xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội thì vẫn có thể bị xem xét áp dụng tình tiết tăng nặng “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”. Tuy nhiên, khi áp dụng tình tiết này, cần bảo đảm nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuồi phạm tội theo quy định tại Điều 91 BLHS năm 2015.

4. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có phải là pháp nhân thương mại không? Trường hợp có 02 pháp nhân thương mại trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì có được xác định là đồng phạm không?

Trả lời:

4.1. Khoản 2 Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác”. Theo Điều 1 và khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là 01 loại hình doanh nghiệp. Do vậy, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là pháp nhân thương mại.

Theo quy định tại khoản 23 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì “Thành viên công ty là cá nhân, tố chức sở hữu một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn...”. Như vậy, pháp luật không đòi hỏi pháp nhân thương mại phải có từ 02 thành viên trở lên. Do đó, việc quy định điều kiện “lợi nhuận được chia cho các thành viên” của pháp nhân thương mại tại khoản 1 Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 cần được hiểu là trong trường hợp pháp nhân thương mại có từ 02 thành viên trở’ lên thì lợi nhuận được chia cho các thành viên tương ứng với tỷ lệ góp vốn của thành viên tại pháp nhân; trường hợp pháp nhân thương mại chỉ có 01 thành viên thì thành viên đó được hưởng toàn bộ phần lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh.

4.2. Điều 74 BLHS năm 2015 quy định: “Pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trải với quy định của Chương này”. Điều 17 Chương III quy định về đồng phạm không trái với quy định của Chương XI BLHS năm 2015. Do vậy, trường hợp có 02 pháp nhân thương mại trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì được xác định là đồng phạm.

5. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thì có thể áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không?

Trả lời:

Biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Điều 96 BLHS năm 2015 là biện pháp do Tòa án áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của ngưòi đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.

Khoản 4 và khoản 6 Điều 91 BLHS năm 2015 quy định:

“4. Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.

6. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa”.

Khoản 1 Điều 430 BLTTHS năm 2015 cũng quy định: “Khi xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt thì Hội đồng xét xử quyết định trong bản án việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”.

Như vậy, căn cứ vào: (1) tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, (2) nhân thân và (3) môi trường sống; nếu xét thấy việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng vẫn bảo đảm hiệu quả giáo dục, răn đe, phòng ngừa thì Tòa án vẫn có thể xem xét để áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối vói người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội, không phụ thuộc vào loại tội phạm mà người đó thực hiện.

6. “Người khác” trong tình tiết “gây thiệt hại cho người khác” quy định tại Điều 264 BLHS năm 2015 về Tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ là người nào? Có bao gồm người được giao điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ hay không?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 264 BLHS năm 2015 thì: “Người nào giao cho người mà biết rõ người đó không có giấy phép lái xe hoặc đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất, ma túy, chất kích thích mạnh khác hoặc không đủ các điêu kiện khác theo quy định của pháp luật điêu khiến phương tiện tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây...".

Chủ thể của tội phạm này là người có hành vi giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông. Do đó, “người khác" trong tình tiết “gảy thiệt hại cho người khác" quy định tại Điều 264 BLHS năm 2015 là tất cả những người khác so với chủ thế của tội phạm (người giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ), tức là bao gồm cả người được giao điều khiến phương tiện tham gia giao thông đường bộ.

Về vấn đề này có thể tham khảo Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, hành chính và dân sự.

7. Trường hợp nhiều lần đánh bạc với hình thức chơi số đề, có lần đánh bạc dưới 5.000.000 đồng, có lần trên 5.000.000 đồng, có lần trên 50.000.000 đồng thì tổng số tiền, hiện vật dùng để đánh bạc được xác định như thế nào? Có áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” trong trường hợp này hay không?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của BLHS thì:

“2. Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét. Cụ thể như sau:

a) Trường hợp tông số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 2.000.000 đồng) và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của BLHS, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc;

b) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối vói lần đánh bạc đó;

c) Trường họp đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm, hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tĩnh tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần ” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của BLHS".

Như vậy, vận dụng tinh thần của Nghị quyết nêu trên, trường hợp nhiều lần đánh bạc thì không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét; nếu có lần đánh bạc dưới 5.000.000 đồng thì không xác định trách nhiệm hình sự của lần đánh bạc đó mà xử lý theo pháp luật xử lý vi phạm hành chính đối với lần đó; đối với lần đánh bạc từ 5.000.000 đồng trở lên thì người đánh bạc phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối vói lần đánh bạc đó; nếu đánh bạc từ 02 lần trở lên mà số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc từ 5.000.000 đồng trở lên thì người đó phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên".

Trong trường họp trên, có 02 lần đánh bạc từ 5.000.000 đồng trở lên (trong đó có 01 lần trên 50.000.000 đồng) nên người đánh bạc phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 Điều 321 BLHS năm 2015 và phải áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên" quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

8. Có áp dụng tình tiết “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” quy định tại khoản 1 Điều 63 BLHS năm 2015 đối với những phạm nhân đã thực hiện hành vi phạm tội trước 0 giò’ 00 phút ngày 01/01/2018 không?

Trả lời:

So với quy định tại Điều 58 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), khoản 1 Điều 63 BLHS năm 2015 đã bổ sung 01 điều kiện để được giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân,đó là: đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự. Tức là, theo quy định của BLHS năm 2015, muốn được giảm mức hình phạt đã tuyên thì người bị kết án phải có thêm điều kiện là đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự; mà theo quy định của BLHS năm 1999 (sửa đối, bổ sung năm 2009) thì không cần phải có điều kiện này. Như vậy, điều kiện “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự" tại khoản 1 Điều 63 BLHS năm 2015 là quy định không có lợi cho người phạm tội so với Điều 58 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Căn cứ khoản 2 Điều 7 BLHS năm 2015 thì “Điều luật quy định một tội phạm mới,..., miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành"', đồng thời, căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành BLHS số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của BLTTHS số 101/2015/QH13, Luật Tố chức Cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 thì “... các điều luật quy định hạn chế phạm vi miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 để giải quyết".

Do đó, không áp dụng tình tiết "đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự" quy định tại khoản 1 Điều 63 BLHS năm 2015 đối với những người đã thực hiện hành vi phạm tội trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018.

9. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 được áp dụng như thế nào đối với trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng theo quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015? Có áp dụng án phí dân sự có giá ngạch trong vụ án hình sự đối vói loại tội này không?

Trả lời:

9.1. Tình tiết "Phạm tội 02 lần trở lên" là đã có từ 02 lần phạm tội trở lên mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại các khoản, điều luật tương ứng, đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường họp một người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng theo quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015, để áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "phạm tội 02 lần trở lên" thì cần thỏa mãn các điều kiện sau:

- Mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 201 BLHS năm 2015, tức là cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng trở lên.

- Trong số các lần phạm tội chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thòi hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo đó:

(1)Trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng mà tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội từ 30 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc từ 100 triệu đồng trỏ’ lên và trong những lần phạm tội đó có số tiền thu lợi bất chính của ít nhất hai lần phạm tội mà mỗi lần từ 30 triệu đồng trở lên, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "phạm tội 02 lần trở lên" quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

(2) Trường họp một người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng mà tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội từ 30 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc tù' 100 triệu đồng trở lên mà trong những lần đó, số tiền thu lợi bất chính chưa lần nào đủ 30 triệu đồng trở lên hoặc chỉ có một lần đủ 30 triệu đồng trở lên, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì chỉ áp dụng khung hình phạt tương ứng với tống số tiền thu lợi bất chính, không áp dụng được tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

9.2. Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 326) quy định các loại án phí trong vụ án hình sự gồm:

"1. Án phí hình sự sơ thẩm.

2. Án phí hình sự phúc thẩm.

3. Án phí dân sự sơ thẩm đối với trường hợp Tòa án giải quyết cả phần dân sự trong vụ án hình sự, bao gồm án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

4. Án phí dân sự phúc thẩm đối với trường hợp có kháng cáo về phần dân sự trong vụ án hình sự".

Theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS năm 2015 thì: "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" và "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi" là 02 biện pháp tư pháp mà pháp luật quy định cho Tòa án áp dụng đối vói người phạm tội. Như vậy, (1) việc tịch thu số tiền gốc do người phạm tội sử dụng để cho vay (tịch thu công cụ phạm tội, phương tiện phạm tội); (2) việc tịch thu số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20% (tịch thu tài sản phát sinh do tội phạm mà có); (3) việc trả lại tài sản vượt quá mức lãi suất 20% cho người vay - người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (trả lại phần tài sản mà người phạm tội thu lợi bất chính của người vay; người vay không được xác định là bị hại nên khoản tiền này không được xác định là khoản bồi thường thiệt hại dân sự) đều là việc Tòa án áp dụng các biện pháp tư pháp, không phải là việc giải quyết phần dân sự trong vụ án hĩnh sự. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326 thì "Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thấm đôi vói yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm".

Như vậy, trong các vụ án hình sự, nếu Tòa án không giải quyết phần dân sự trong vụ án đó (không có yêu cầu của đương sự) thì không áp dụng án phí dân sự sơ thẩm (bao gồm án phí dân sự SO’ thẩm có giá ngạch và án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch). Trong trường hợp này, bị cáo chỉ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 nêu trên.

10. Đối với rừng đã quy hoạch cho mục đích khác nhưng chưa có quyết định chuyển mục đích sử dụng rừng của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì cần xác định là loại rừng nào để truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 232, Điều 243 BLHS năm 2015?

Trả lời:

Căn cứ quy định tại các điều 18, 27 và 28 Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, trường hợp chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích sử dụng khác phải được cơ quan nhà nước có thấm quyền tại khoản 2 Điều 28 Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 quyết định. Do vậy, đối với trường hợp rừng đã quy hoạch cho mục đích khác nhưng chưa có quyết định chuyến mục đích sử dụng sang mục đích khác thì khi xác định loại rừng cần xác định theo loại đang được xác lập tại thời điểm xác định đó.

11. Xử lý như thế nào đối với hành vi vận chuyển trái phép chân của cá thể Gấu ngựa?

Trả lời:

11.1. Gấu ngựa có tên khoa học là Ursus Thibetanus, thuộc Phụ lục I Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ ban hành kèm theo Nghị định số 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về tiêu chí xác định loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Do đó, hành vi của người nào vi phạm quy định về bảo vệ Gấu ngựa mà đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì có thể bị xử lý theo quy định tại Điều 244 BLHS năm 2015.

11.2. Theo quy định tại khoản 6 Điều 2 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP ngày 05/11/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 234 về tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của BLHS thì:

“Sản phẩm của động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm là các loại sản phẩm có nguồn gốc tù’ động vật (ví dụ: thịt, trứng, sữa, tinh dịch, phôi động vật, huyết, nội tạng, da, lông, xương, sừng, ngà, chân, móng...); động vật thủy sản đã qua sơ chế, chế hiến ở dạng nguyên con; vật phấm có thành phân từ các bộ phận của động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm đã qua chê biến (ví dụ: cao nấu từ xương động vật hoang dã; túi xách, ví, dây thắt lưng làm từ da động vật hoang dã)”.

Như vậy, chân của cá thể Gấu ngựa là sán phẩm của động vật. Vì vậy, người nào có hành vi vận chuyến trái phép chân của cá thế Gấu ngựa thì có thể bị xử lý theo điểm b khoản 1 Điều 244 BLHS năm 2015.

12. Khoảng 22 giò’ ngày 19/5/2019, Công an huyện T bắt quả tang A (15 tuổi) đang bán cho N (17 tuổi) 0,0565 gam Methamphetamine (ma túy đá) với giá 200.000 đồng. Tại Cơ’ quan điều tra, A còn khai nhận trong khoảng thời gian từ ngày 21/3-03/5/2019, A còn bán 03 lần ma túy cùng loại, cùng giá tiền như trên cho N. Tổng 04 lần A bán ma túy cho N có tổng khối lượng là 0,226 gam. Xử lý hành vi của A như thế nào?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (trong đó có tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015).

Theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2 phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999 thì: "'Tình tiết “phạm tội nhiều lần” quỵ định tại khoản 2 các điều 193, 194, 195, 196, 197, 198, 200 và 201 của BLHS được hiểu là đã cỏ từ hai lân phạm tội trở lên (hai lần sản xuất trái phép chất ma túy trở lên, hai lần tàng trữ trái phép chất ma tủy trở lên, hai lẩn bán trái phép chất ma túy trở lên...) mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự”. Theo quy định tại tiểu mục 10.1 mục 10 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của BLHS thì: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuôi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy từ hai lần trở lên, nếu tông trọng lượng chất ma túy của các lần cộng lại dưới mức toi thiểu hoặc không xác định được tông trọng luợng chất ma tủy của tất cả các lần đã đến mức tối thiếu quy định tại điểm g, h, ỉ, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều 194 của BLHS thì họ không phải chịu trách nhiệm hĩnh sự về tội Mua bán trái phép chất ma tủy”.

Tình tiết “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS năm 1999 với tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015 về bản chất là giống nhau. Mặt khác, đường lối xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm các tội về ma túy của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999 cũng không có sự thay đồi. Do vậy, có thể vận dụng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC-BTP và Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP nêu trên để xử lý đối vói hành vi mua bán trái phép chất ma túy của A.

Như vậy, có thể thấy:

- A không thuộc trường họp “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015 vì mỗi lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy của A chưa có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 điều luật tương ứng (do A dưới 16 tuổi);

- Tổng khối lượng ma túy của 04 lần A bán cho N là 0,226gam dưới mức tối thiểu quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015 (05 gam);

- A không bán ma túy cho người dưới 16 tuổi (N 17 tuổi).

Do đó, không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự của A về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 251 BLHS năm 2015.

13. B làm thuê tại nước ngoài. Ngày 06/11/2018, B mua 21 viên hồng phiến. Ngày 07/11/2018, B về Việt Nam và mang theo số hồng phiến đã mua với mục đích để sử dụng, khi làm thủ tục nhập cảnh tại cửa khẩu thì bị phát hiện và bắt giữ. Qua giám định, xác định số hồng phiến thu giữ’ của B là Methamphetamine có tổng khối lượng là 2,1625 gam. Hành vi của B phạm tội Vận chuyển trái phép chất ma túy với tình tiết “qua biên giới” hay phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy?

Trả lời:

Căn cứ Điều 249 BLHS năm 2015 thì người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bản, vận chuyến, sản xuất, trái phép chất ma túy, đồng thời thỏa mãn các cấu thành cơ bản khác của Điều này thì phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ Điều 250 BLHS năm 2015 thì người nào vận chuyến trái phép chất ma tủy mà không nhằm mục đích sản xuất, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy, đồng thời thỏa mãn các cấu thành cơ bản khác của Điều này thì phạm tội Vận chuyển trái phép chất ma túy.

Theo đó, hành vi của B mang theo số ma túy đã mua với mục đích để sử dụng, không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy; tổng khối lượng ma túy là 2,1625 gam; do vậy, đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

14. D bị bắt quả tang có hành vi bán 01 ống thủy tinh, 01 ống nhựa dùng để sử dụng ma túy đá; tàng trữ tổng số 141 ống thủy tinh, 32 chai ga, 32 bật lửa các loại, 15 bình thủy tinh, 55 ống nhựa màu trắng, 03 bịch ống hút, 63 bịch nilon trong suốt đế bán cho những người sử dụng trái phép chất ma túy đá thu lòi bất chính. Vậy hành vi của D có dấu hiệu của tội gì? Co’ quan có thẩm quyền có phải trưng cầu giám định các đồ vật thu giữ được hay không?

Trả lời:

Đối chiếu với quy định tại Điều 254 BLHS năm 2015, hành vi của D có dấu hiệu của tội Mua bán dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Theo quy định tại Điều 206 BLTTHS năm 2015 thì trường hợp các dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy không phải là trường họp bắt buộc phải giám định. Trong quá trình giải quyết, nếu thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền có thể trưng cầu giám định.

15. X có ý định mua 65,2 gam thuốc phiện về cất giữ để sử dụng. X đã chuyển đủ 4.000.000 đồng cho T để mua 65,2 gam thuốc phiện. T đã nhận đủ 4.000.000 đồng của X. Tuy nhiên, khi T mang thuốc phiện đem giao cho X thì bị bắt quả tang cùng tang vật. X có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?

Trả lời:

Việc T bị bắt khi chưa kịp giao 65,2 gam thuốc phiện cho X dẫn đến X chưa nhận được 65,2 gam thuốc phiện như đã thỏa thuận là nằm ngoài ý muốn chủ quan của T và X. X đã cố ý thực hiện tội phạm tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng không thực hiện được đến cùng vì nguyên nhân ngoài ý muốn của X. Như vậy, X có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.

16. Trường hợp người nghiện ma túy có hành vi cho người nghiện ma túy khác hoặc để mặc cho người nghiện ma túy 02 lần sử dụng trái phép chất ma túy trở lên hoặc để mặc cho nhiều người nghiện ma túy sử dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình, thì có phạm tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy hay không? Ngoài hành vi nêu trên, người nghiện ma túy còn có hành vi cung cấp chất ma túy cho người nghiện ma túy khác (không xác định được khối lượng số ma túy này vì các đối tượng đã sử dụng hết) thì xử lý như thế nào?

Trả lời:

16.1. Khoản 1 Điều 256 BLHS năm 2015 quy định bất kể người nào đủ năng lực trách nhiệm hình sự có hành vi cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy đều là chủ thể của tội phạm, không loại trừ trường hợp đó là người nghiện ma túy. Do vậy, trong trường hợp người nghiện ma túy có hành vi cho người nghiện ma túy khác sử dụng ma túy tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

16.2. Khoản 1 Điều 255 BLHS năm 2015 quy định: “Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm". Như vậy, bất kế ngưòi nào đủ năng lực trách nhiệm hình sự có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đều là chủ thể của tội phạm, không loại trừ trường hợp đó là người nghiện ma túy. Ngoài ra, tham khảo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao tại Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 về thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử thì “...hành vi cung cấp ma túy cho người khác sử dụng là một trong các hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Người có hành vi này bị xử lý theo quy định tại Điều 255 của BLHS”. Do vậy, người nghiện ma túy có hành vi cung cấp chất ma túy cho người nghiện ma túy khác sử dụng tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tố chức sử dụng trái phép chất ma túy.

17. Tình tiết “để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc” quy định điểm b khoản 1 Điều 322 BLHS năm 2015 có thể bao gồm cả ngưòi dửng ra tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép hay không? Xử lý thế nào đối vó’i A có hành vi cho 09 ngưòi khác tham gia đánh bạc tại địa điểm thuộc quyền sỏ’ hữu của mình để thu lọi bất chính 600.000 đồng của những ngưòi này; đồng thòi A tham gia đánh bạc cùng 09 ngưòi này trong cùng 1 lúc vói tổng số tiền dùng đánh bạc là 15.045.000 đồng?

Trả lời:

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 BLHS năm 2015 thì:

“7. Người nào tô chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường họp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đông hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

b) Sử dụng địa diêm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình đế cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tống số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên".

Như vậy, BLHS năm 2015 không có quy định loại trừ việc để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc là không bao gồm chính ngưòi thực hiện hành vi. Do đó, tình tiết “để cho 10 người đánh bạc trở lên\\\xy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 BLHS năm 2015 được hiểu là bao gồm cả người đứng ra tố chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép. Tức là: (1) nếu một người không tham gia đánh bạc nhưng sử dụng địa điếm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 9 người khác đánh bạc trong cùng một lúc thì số lượng người đánh bạc ở đây chỉ là 9 người (không bao gồm người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc); (2) nếu một người vừa sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 9 người khác đánh bạc, vừa tham gia đánh bạc thì số lượng người đánh bạc phải được xác định là 10 người (bao gồm cả người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc).

Do vậy, trường hợp A có hành vi cho 09 người khác tham gia đánh bạc tại địa điểm thuộc quyền sở hữu của mình để thu lọi bất chính 600.000 đồng của những người này; đồng thời A tham gia đánh bạc cùng 09 người này trong cùng 1 lúc với tổng số tiền dùng đánh bạc là 15.045.000 đồng thì A có thể bị xử lý về 02 tội: Đánh bạc và Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.

أحدث أقدم

Quảng cáo Desktop

CHỦ ĐỀ HÓT