Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông báo rút kinh nghiệm về những sai sót, vi phạm trong vụ án "Tranh chấp đòi tài sản" giữa nguyên đơn là các bà: Võ Thị Q, Vũ Thị D, Vũ Thị Nh với bị đơn là bà Lê Thị Đ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Võ Quốc H, chị Võ Thị V, ủy ban nhân dân thành phố c và một số người khác.
I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
Cụ Võ Văn M (chết năm 1992), cụ Nguyễn Thị U (chết năm 2014), hai cụ có 05 người con, gồm các ông, bà: Võ Văn Th, Võ Thị Q, Vũ Thị Nh, Vũ Thị D, Vũ Anh T (chết năm 2014, có vợ là bà Lê Thị Đ và các con anh Võ Quốc H, chị Võ Thị V). Khi còn sống, hai cụ tạo lập được nhà trên diện tích đất là 1.680m2 tại số 553 LTK, Phường 6, thành phố CM, tỉnh C. Sau khi cụ M chết, cụ U chia đất cho các con, ông Võ Văn Th, bà Võ Thị Q và bà Vũ Thị D đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất được cụ U cho. Riêng phần đất cụ U cho bà Nh 216m2, cho ông T 300m2 vẫn do cụ U đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tổng diện tích 633,4m2, sau khi trừ phần đất cho bà Nh, ông T, thì phần đất của cụ U còn lại 117,4m2. Khi còn sống, cụ U sống chung với ông T cùng bà Đ và 2 con của ông T và bà Đ là H và V tại căn nhà trên. Cụ U ngăn nhà thành 01 căn riêng biệt để ở một mình và tự chăm sóc, sau khi cụ U chết, nhà đất do ông T, bà Đ quản lý cho đến nay.
Các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà Đ trả lại nhà đất đo thực tế 188,15m2 và yêu cầu được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để quản lý và thờ cúng cha mẹ; bà Nh được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần cụ U cho bà 216m2 nay vẫn thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ U.
Bị đơn bà Lê Thị Đ thừa nhận có việc cụ U chia đất như nguyên đơn trình bày, phần đất còn lại 633,4m2 là của ông T. Thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho “hộ” cụ U gồm vợ chồng ông T, bà Đ và hai người con là anh H, chị V diện tích 633,4m2 nhưng không chứng minh được việc cụ U cho ông T nhà đất mà cho rằng vì ông T là con trai sống chung với cụ U nên được hưởng nhà đất của cụ U để lại và yêu cầu giao nhà đất tranh chấp cho bị đơn và các con bị đơn quản lý và thờ cúng.
II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
1. Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2016/DS-ST ngày 25/10/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh C quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu đòi lại tài sản của các nguyên đơn.
Buộc bà Lê Thị Đ, anh Võ Quốc H, chị Võ Thị V phải giao trả cho các nguyên đơn phần đất gồm sân, nhà, lối đi, nhà mồ với diện tích 188,15m2 tọa lạc tại tại số 553 LTK, Phường 6, thành phố CM, tỉnh C (Kèm theo bản trích đo hiện trạng ngày 01/12/2015 do Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh C lập).
Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ746804 ngày 19/11/2013 do ủy ban nhân dân thành phố CM cấp cho cụ U. Bà Võ Thị Q, bà Vũ Thị H, bà Vũ Thị Nh có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật nhưng không có quyền định đoạt phần di sản thờ cúng khi chưa được sự đồng ý của những người thuộc hàng thừa kể thứ nhất của cụ U.
Sau xét xử sơ thẩm, bị đơn bà Đ và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh H có đơn kháng cáo không nhất trí với toàn bộ bản án sơ thẩm trên.
2. Bản án dân sự phúc thẩm số 138/2017/DS-PT ngày 17/7/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố H quyết định:
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị Đ và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Võ Quốc H; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Lê Thị Đ có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 31/2020/KN-DS ngày 10/6/2020, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 138/2017/DS-PT ngày 17/7/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố H; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2016/DS-ST ngày 25/10/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh C.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 21/2021/DS-GĐT ngày 22/6/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 31/2020/KN-DS ngày 10/6/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2016/DS-ST ngày 25/10/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh C để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
III. VI PHẠM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM
Từ vụ án trên, với những vi phạm đã phát hiện, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông báo để các Viện kiểm sát nhân dân các cấp nghiên cứu cùng rút kinh nghiệm chung, nhằm nhận diện được các vi phạm tương tự./.