Thực hiện chức năng kiểm sát xét xử giám đốc thẩm đối với vụ án “Tranh chấp thừa kế” giữa nguyên đơn bà Đinh Thị Hạnh và bị đơn bà Đinh Thị Châm, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thấy quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm và phúc thẩm có vi phạm như sau:
1. Nội dung vụ án:
Cụ Đinh Văn Măng và cụ Lý Thị Lai chết đều không để lại di chúc. Hai cụ sinh được 10 người con chung là: Bà Đinh Thị Xuân, bà Đinh Thị Thu (chết năm 2011, có chồng là ông Dương Văn Lập, chết năm 2001, có 02 con là chị Dương Thanh Hà, anh Dương Văn Sơn), bà Đinh Thị Mai (chết 2015, có chồng là ông Nghiêm Văn Bình và có 02 con là chị Nghiêm Thị Ánh Tuyết, anh Nghiêm Xuân Mạnh), bà Đinh Thị Hạnh, bà Đinh Thị Hòa, ông Đinh Quang Thành, bà Đinh Thị Kim Thanh, bà Đinh Thị Châm, bà Đinh Thị Phúc, ông Đinh Văn Công.
Theo bà Hạnh trình bày: Khi còn sống, vợ chồng cụ Măng và cụ Lai tạo lập được khối tài sản gồm có: Nhà, đất diện tích 60,6m2 tại số 315 đường TK, đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cụ Lai và nhà đất tại ngõ 315 đường TK, diện tích đất sử dụng riêng là 64,5m2, đất không được cấp giấy chứng nhận là 21,2m2, bên cạnh có lối đi chung diện tích 31,48m2. Năm 1989, cụ Lai chỉ đồng ý cho bà Châm sử dụng diện tích đất chuồng lợn để làm chỗ ở, nhưng bà Châm lập biên bản thỏa thuận giả chữ ký của các anh chị em trong gia đình, tự ý kê khai phần đất ngõ 315 đường TK và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2007 đứng tên bà Châm; diện tích đất không được cấp giấy chứng nhận thuộc dự án cải tạo mương TK, UBND quận đã có quyết định thu hồi và bồi thường hỗ trợ số tiền 565.000.000 đồng (trong đó có 537.000.000 đồng tiền bồi thường về đất sử dụng trước ngày 15/10/1993). Bà Hạnh yêu cầu chia di sản của cụ Măng và cụ Lai theo quy định của pháp luật và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Châm.
Bà Châm xác định hai cụ chỉ có nhà, đất diện tích 60,6m2 tại số 315 đường TK. Tại ngõ 315 đường TK, hai cụ chỉ có 20m2 đất chuồng lợn nhưng cụ Lai đã cho bà Châm từ năm 1989 để làm chồ ở, đến năm 2005 mới lập thành văn bản có chữ ký của cụ Lai và các anh chị em trong gia đình. Quá trình sử dụng, bà Châm đã cơi nới, cải tạo thành 85,7m2 sử dụng riêng và 31,48m2 sử dụng chung. Năm 2007, bà kê khai và được cấp giấy chứng nhận diện tích sử dụng riêng là 64,5m2, diện tích sử dụng chung 31,48m2, diện tích không được cấp giấy chứng nhận là 21,2m2 nên bà không chấp nhận theo yêu cầu của nguyên đơn.
Ông Thành và ông Công thống nhất với trình bày của bà Châm và đề nghị chia diện tích 60,6m2 tại số 315 đường TK cho hai ông để có chỗ ở và thờ cúng. Bà Thanh, bà Phúc thống nhất với trình bày của bà Châm và đề nghị nếu được hưởng thừa kế, hai bà tự nguyện để lại kỷ phần cho ông Thành, ông Công và bà Châm. Bà Xuân, bà Hòa, ông Bình, chị Tuyết, anh Mạnh thống nhất với ý kiến bà Hạnh, đề nghị được hưởng thừa kế bằng hiện vật chung một khối cùng bà Hạnh. Chị Hà, anh Son đề nghị được nhận kỷ phần theo giá trị.
2. Quá trình giải quyết vụ án:
- Tại Bản án dân sự sơ thẩm xử: Chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu chia thừa kế và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Châm.
Xác định hàng thừa kế của cụ Măng và cụ Lai gồm 10 người con là bà Xuân, thừa kế của bà Thu (là chị Hà, anh Sơn), thừa kế của bà Mai (là ông Bình, chị Tuyết, anh Mạnh), bà Hạnh, bà Hòa, ông Thành, bà Thanh, bà Châm, bà Phúc, ông Công.
Di sản của cụ Măng và cụ Lai có nhà đất 60,7m2 tại số 315 đường TK, nhà đất 85,7m2 ngõ 315 đường TK do bà Châm quản lý và 537.775.200 đồng tiền bồi thường, hỗ trợ về đất chưa nhận, tổng giá trị là 9.375.775.200 đồng.
Bà Châm được chia 2.144.684.290 đồng, gồm: tiền hỗ trợ về đất ở 565.697.040 đồng; 01 kỷ phần thừa kế 803.454.545 đồng; 01 kỷ phần thừa kế do bà Thanh, bà Phúc cho bà Châm là 803.454.545 đồng.
Ông Thành, ông Công được chia 04 kỷ phần bằng 3.213.818.181 đồng, gồm: mỗi ông được 01 kỷ phần, 01 kỷ phần trích công sức và 01 kỷ phần do bà Thanh, bà Phúc cho ông Thành và ông Công.
Bà Hạnh, bà Xuân, bà Hòa và những người thừa kế của bà Mai được chia 04 kỷ phần bằng 3.213.818.180 đồng.
Thừa kế của bà Thu được chia 01 kỷ phần bằng 803.454.545 đồng.
Chia cho ông Thành, ông Công sử dụng nhà đất 60,7m2 tại số 315 đường TK. Buộc ông Thành, ông Công thanh toán số tiền chênh lệch cho bà Hạnh, bà Xuân, bà Hòa, thừa kế của bà Mai và thừa kế của bà Thu.
Chia cho bà Hạnh, bà Hòa, bà Xuân và thừa kế của bà Mai sử dụng phần đất ngõ 315 đường TK diện tích 32,5m2 đã được cấp giấy chứng nhận và được giao l,5m2 đất dôi dư do đo thực tế. Bà Hạnh, bà Hòa, bà Xuân và thừa kế của bà Mai còn được ông Thành, ông Công thanh toán số tiền chênh lệch do hưởng di sản bằng hiện vật.
Chia cho bà Châm diện tích 32m2 đất đã được cấp giấy chứng nhận và giao l,5m2 đất dôi dư đo thực tế, trên đất có 01 nhà cấp 4 diện tích l,9m2 và 01 nhà 18m2 tại ngõ 315 đường Thụy Khê và bà Châm tự mở lối đi ra đường. Chia cho bà Châm 537.775.200 đồng tiền bồi thường hỗ trợ về đất ở. Buộc bà Châm phải thanh toán cho chị Hà, anh Sơn số tiền chênh lệch.
Đối với phần ngõ đi chung được giữ nguyên hiện trạng để sử dụng chung.
Sau xét xử sơ thẩm, các đương sự đều có đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Thanh, bà Phúc rút ý kiến dành kỷ phần thừa kế cho bà Châm, ông Thành, ông Công, đề nghị được hưởng kỷ phần thừa kế.
- Bản án dân sự phúc thẩm quyết định: Sửa bản án sơ thẩm phần phân chia di sản thừa kế, công sức, cụ thể:
Tổng giá trị di sản của cụ Măng, cụ Lai là 9.375.775.200 đồng, được chia thành 11 kỷ phần thừa kế, mỗi kỷ phần có giá trị 852.341.382 đồng.
Trích công sức cho bà Châm được hưởng bằng 01 kỷ phần trị giá 852.341.382 đồng.
Bà Hạnh, bà Xuân, bà Hòa và các thừa kế của bà Mai mỗi người được hưởng 01 kỷ phần và được chia chung có giá trị 3.409.365.528 đồng. Chia chung hiện vật là nhà đất cho 04 kỷ phần nêu trên có diện tích nhà đất là 34m2 là 1.700.000.000 đồng, số tiền còn thiếu so với giá trị được chia là 1.709.365.528 đồng.
Ông Thành, ông Công mỗi người được hưởng 01 kỷ phần thừa kế là 1.704.682.764 đồng. Chia chung hiện vật cho ông Thành, ông Công nhà đất 60,7m2 trị giá 5.463.000.000 đồng.
Số tiền ông Thành, ông Công phải liên đới thanh toán cho các đồng thừa kế khác là 3.758.317.236 đồng.
Bà Châm được hưởng 01 kỷ phần thừa kế và 01 kỷ phần công sức trị giá 1.704.682.764 đồng. Chia hiện vật cho bà Châm là nhà đất 33,5m2 trị giá 1.675.000.000 đồng, số tiền còn thiếu so với giá trị được chia là 29.682.764 đồng.